"Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm (âm lịch)" là câu ca dân gian nói về thời điểm rươi nổi. Hàng năm cứ vào tháng 9, 10 và 11 âm lịch được coi là mùa vàng của các vùng rươi ở Hải Dương. Đây cũng chính là lúc các vùng rươi ở Hải Dương vào vụ thu hoạch chính, thương lái khắp nơi nhộn nhịp
Ba Mươi Tháng Tư Thế Võ Lật Bánh Tráng - Truyện Cung Tích Biền 1 Biến cố Ba mươi tháng Tư 1975 là một cuộc trần ai, Lật bánh tráng. Một này lật úp trọn vẹn. Một kia lật ngửa, trần trụi, phô bày toàn thể cái Không-thể-giấu-giếm, của nó. Có người nói rằng, "Cuộc chiến Bắc Nam chấm dứt, kẻ thắng người thua đều là kẻ bại trận."
Đậu hũ sốt chua cay. Bữa ăn nhiều thịt và mỡ sẽ làm bạn có cảm giác ngán, hơn nữa không tốt cho sức khỏe. Món đậu sốt chua cay sẽ làm hài lòng bạn với vị mềm thanh, chua ngọt dễ ăn, nếu nhà bạn có bé thì nhớ bớt phần ớt cay nhé. Đọc thêm ».
Chương 214: Lễ mừng năm mới. Người một nhà đẩy xe đi thật lâu cũng không có người lên tiếng. Ngũ Lang không đi theo vào cửa hàng nên không biết chuyện gì xảy ra, hắn phát hiện không khí có chút quái dị, liền nhỏ giọng hỏi Liên Mạn Nhi. Liên Mạn Nhi liền đem sự tình
dKMTVS. Thành ngữ là một tập hợp từ cố định đã quen dùng mà nghĩa thường không thể giải thích đơn giản bằng nghĩa của các từ cấu tạo nên nó. Thành ngữ được sử dụng rộng rãi trong lời ăn tiếng nói cũng như sáng tác thơ ca văn học tiếng Việt. Thành ngữ ngắn gọn, hàm súc, có tính hình tượng, tính biểu cảm cao. Việc nói thành ngữ là một tập hợp từ cố định có nghĩa là thành ngữ không tạo thành câu hoàn chỉnh về mặt ngữ pháp, cũng không thể thay thế và sửa đổi về mặt ngôn từ. Thành ngữ thường bị nhầm lẫn với tục ngữ và quán ngữ. Trong khi tục ngữ là một câu nói hoàn chỉnh, diễn đạt trọn vẹn một ý nhằm nhận xét quan hệ xã hội, truyền đạt kinh nghiệm sống, hay phê phán sự việc, hiện tượng. Một câu tục ngữ có thể được coi là một tác phẩm văn học khá hoàn chỉnh vì nó mang trong mình cả ba chức năng cơ bản của văn học là chức năng nhận thức, và chức năng thẩm mỹ, cũng như chức năng giáo dục. Còn quán ngữ là tổ hợp từ cố định đã dùng lâu thành quen, nghĩa có thể suy ra từ nghĩa của các yếu tố hợp thành. Định nghĩa - Khái niệm tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm có ý nghĩa là gì? Dưới đây sẽ giải thích ý nghĩa của câu tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm trong tiếng Việt của chúng ta mà có thể bạn chưa nắm được. Và giải thích cách dùng từ tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm trong Thành ngữ Tiếng Việt. Sau khi đọc xong nội dung này chắc chắn bạn sẽ biết từ tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm nghĩa là gì. Khoảng 20 tháng 9 và mồng 5 tháng 10 là thời kỳ nước triều mạnh triều cường và có mưa rơi. Thuật ngữ liên quan tới tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm ma ăn mày bụt, bụt chẳng thèm ăn mày ma là gì? được tiếng khen ho hen chẳng còn là gì? mười voi không được bát nước xáo là gì? cháy nhà hàng xóm, bằng chân như vại là gì? nát ruột nát gan là gì? vì sông nên phải luỵ đò là gì? sẩy chân còn hơn sẩy miệng là gì? ngày lành tháng tốt là gì? lọng máu cáo, áo hoa thiên là gì? nhiều tiền ăn thịt, ít tiền ăn nây là gì? trâu mạnh trâu được, cỏ mạnh cỏ được là gì? cày sâu cuốc bẫm là gì? gió chiều nào che chiều nấy là gì? của chìm, của nổi là gì? trăm ông chú không bằng một mụ bà cô là gì? Tóm lại nội dung ý nghĩa của câu "tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm" trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm có nghĩa là Khoảng 20 tháng 9 và mồng 5 tháng 10 là thời kỳ nước triều mạnh triều cường và có mưa rơi. Đây là cách dùng câu tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm. Thực chất, "tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm" là một câu trong từ điển Thành ngữ Tiếng Việt được cập nhập mới nhất năm 2023. Kết luận Hôm nay bạn đã học được thành ngữ tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm là gì? với Từ Điển Số rồi phải không? Hãy truy cập để tra cứu thông tin các thuật ngữ chuyên ngành tiếng Anh, Trung, Nhật, Hàn...liên tục được cập nhập. Từ Điển Số là một website giải thích ý nghĩa từ điển chuyên ngành thường dùng cho các ngôn ngữ chính trên thế giới.
Câu nói Tháng chín đôi mươi, tháng mười mồng năm là nói về A. Số lượng cá thể của quần thể rươi giảm mạnh vào nhừn ngày trên theo âm lịch B. Sự biến động số lượng cá thể của quần thể rươi, những ngày trên theo dương lịch kích thước của quần thể rươi tăng C. Cách đánh bắt rươi, những ngày như theo âm lịch không nên đi bắt rươi vì lúc này rươi có nhiều chất độc D. Sự biến động số lượng cá thể của quần thể rươi, những ngày trên theo âm lịch kích thước của quần thể rươi tăng.
Câu hỏi “Đêm tháng năm chưa nằm đã sángNgày tháng mười chưa cười đã tối”Câu tục ngữ trên đã rất gần gũi với người dân Việt Nam. Nội dung của nó thể hiện hiện tượng tự nhiên diễn ra hàng năm ở nước ta. Theo em đó là hiện tượng gì? Nguyên nhân sinh ra hiện tượng đó. Xem chi tiết Câu tục ngữ“ Đêm tháng năm chưa nằm đã sáng. Ngày tháng mười chưa cười đã tối”. Nội dung của nó thể hiện một hiện tượng tự nhiên diễn ra hàng năm ở nước ta, đó là * Xem chi tiết Câu 46 Cho câu tục ngữ sau “Đêm tháng năm, chưa nằm đã sángNgày tháng mười, chưa cười đã tối”Câu tục ngữ trên thể hiện hệ quả nào của chuyển động quay quanh Mặt Trời của Trái Đất?A. Hiện tượng mặt trời lên thiên Các mùa trong Ngày, đêm luân phiên Ngày đêm dài ngắn khác nhau theo 46 Nước ta có tọa độ địa lí từ 230 23’B đến 80 34’B. Vậy trong một năm, Đọc tiếp Xem chi tiết Câu 3 Câu tục ngữ sau đề cập đến hiện tượng nào“Đêm tháng năm chưa nằm đã sángNgày tháng mười chưa cười đã tối.” Xem chi tiết Phân tích từng câu tục ngữ theo những nội dung saua. Nghĩa của câu tục Cơ sở thực tiễn của kinh nghiệm nêu trong câu tục Một số trường hợp có thể áp dụng kinh nghiệm nêu trong câu tục ngữ. Ví dụ, có thể ứng dụng câu 1 vào việc sử dụng thời gian cho phù hợp ở mùa hè, mùa đông như thế nào?d. Giá trị của kinh nghiệm mà câu tục ngữ thể tháng năm chưa nằm đã sáng/ Ngày tháng mười chưa cười đã tốiMau sao thì nắng, vắng sao thì mưaRáng mỡ gà có nhà thì giữTháng bảy kiến bò chỉ...Đọc tiếp Xem chi tiết Giải nghĩa câu thành ngữ tục ngữ sau Dù ai đi ngược về xuôi Nhớ ngày dỗ Tổ mồng mười tháng ba . Xem chi tiết câu tục ngữ chín người mười ý có nghĩa là gì Xem chi tiết Nhận định nào sau đây không đúng về hiện tượng địa lí trong câu tục ngữ sau“Đêm tháng Năm chưa nằm đã sáng Ngày tháng Mười chưa cười đã tối ” A. Vào tháng Năm, ngày dài hơn đêm B. Vào tháng Mười, đêm dài hơn ngày C. Câu tục ngữ này sai ở Bán cầu Nam, Xích đạo, cực D. Câu tục ngữ trên đề cập đến hiện tượng ngày đêm dài ngắn theo vĩ độĐọc tiếp Xem chi tiết
Mồng chín tháng chín có mưa Mồng chín tháng chín có mưa Thì con sắm sửa cày bừa làm ăn Mồng chín tháng chín không mưa Thì con bán cả cày bừa đi buôn. Cùng thể loại Trời cho cày cấy đầy đồng Trời cho cày cấy đầy đồng Xứ nào xứ ấy trong lòng vui ghê Một mai gặt lúa đem về Thờ cha kính mẹ nhiều bề hiếu trung Chồng chài, vợ lưới, con câu Chồng chài, vợ lưới, con câu, Sông Ngô bể Sở biết đâu là nhà. Ví dù theo lái xuống tàu Ví dù theo lái xuống tàu Thì em mới biết cá gầu có gai Con bơn, con nhệch là hai Con còng, con ghẹ, nó tài đào hang Kể rằng cá đuối bơi ngang Cái đuôi có điện ra đàng làm cao Lại tăm con cá đuối sao Nước lên cả nước gặp ngay cá ngần Biển sâu lại có chướng ngầm Cá ăn nó lượn ba lần nó ra Cá Ông thì ở bể xa Lưỡng long chầu nguyệt có ngà đôi bên Lần đầu xuống bến xuống thuyền Sao mà em biết nhãn tiền cá Ông Ví dù em có sang sông Thì em mới biết cá Ông chầu đền Kể từ mặt biển kể lên Chim, thu, nhụ, đé, vược hên nhất đời Cá he ngậm nước bao giờ Mà em dám nói đổ ngờ cá he Kể cả con cá mòi he Xương dăm vẫn mặc cứ le cho vào Kể từ con cá chuồn hoa Nó nhảy một cái qua ba lần thuyền Kể từ con cá đối đen Bắt được đi bán lấy tiền ăn chơi Dưới bể có cả đồi mồi Có con lợn bể nó bơi cả ngày Kể cả con cá mó tày Vàng xanh cả vẩy cả vây cũng mừng Kể cả con mực, con nhưng Cứ cầm cho chặt lưới thừng không buông Con mực nhuộm đục cả luồng Đón đuôi thả lưới mà buông đến cùng Cá mập bơi lội vẫy vùng Khoanh tay vược lộn ở vùng bể Đông Kể từ cá mú, cá song Cá nhung, cá cúng, cá hồng Áng Gai Cá sông kể cũng rất tài Cá mè, cá chép, ở khe ngọn nguồn Trở giời nó mới lượn lên Ví dù em ở đồng trên gần nguồn Thì em mới biết nguồn cơn Thì em mới biết cá rô, trê đồng Bây giờ em chưa có chồng Làm gì em biết thuộc lòng cá chim? Em đây chính thực anh hùng Em đây chính thực anh hùng Em đi chắn lưới ở vùng Vạn Hoa Chắn từ Cái Rồng mà ra Chắn đến Xà Kẹp chắn qua Bãi Dài Cái Bàn chắn từ Hòn Hai Chắn sang Cây Khế, Cái Đài hai hôm Vụng Đài thấp nước bồn chồn Cửa Mô sóng vỗ đầu cồn lao xao Rồi ra ta sẽ chèo vào Lò Vôi chốn ấy ta vào chắn chơi Sau thì ta sẽ nghỉ ngơi Ta chèo vào phố đậu chơi mấy ngày Chắn quanh cái khúc sông này Chỗ nào thấp nước ta nay làm chuồng Em đây ngỏ thực anh tường Để anh biết thực mọi đường chắn đăng. Lưới anh đánh ở Cửa Mô Lưới anh đánh ở Cửa Mô Bằng gộc, bằng gồ, bằng hốc, bằng hang Con đi học lấy nghề cha Con đi học lấy nghề cha, Một năm đục đá bằng ba năm cày. Ruộng chua mà bón phân lèn Ruộng chua mà bón phân lèn Cũng bằng duyên bạn xe bền duyên tui. Khi mô rú Quyết có mây Khi mô rú Quyết có mây, Cửa Lò có chớp ngày rày hẵng mưa Bao giờ Đại Huệ mang tơi Bao giờ Đại Huệ mang tơi Rú Đụn đội nón thì trời mới mưa Bao giờ mống Mắt mống Mê Bao giờ mống Mắt mống Mê Thuyền câu thuyền lái chèo về cho mau Có cùng từ khóa Cần tái, cải nhừ Cần tái, cải nhừ Lưng chữ cụ, vú chữ tâm Lưng chữ cụ, vú chữ tâm Đầu công, mình cốc, cánh vỏ trai Đầu công, mình cốc, cánh vỏ trai Dị bản Đầu công, mình cốc, quản ngắn, đùi dài, cánh vỏ trai, mỏ búp chuối Lợn rọ, chó thui Lợn rọ, chó thui Lợn nhà, gà chợ Lợn nhà, gà chợ Gà nâu chân thấp mình to Gà nâu chân thấp mình to Đẻ nhiều trứng lớn, con vừa khéo nuôi Chẳng nên nuôi giống pha mùi Đẻ không được mấy, con nuôi vụng về Gà lấm lưng, chó sưng đồ Gà lấm lưng, chó sưng đồ Ra đi mẹ có dặn dò Ra đi mẹ có dặn dò Ruộng rộc thì cấy, ruộng gò thì gieo Cấy thưa thừa thóc, cấy dày thì cóc được ăn Cấy thưa thừa thóc, cấy dày thì cóc được ăn Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm Tháng chín đôi mươi Tháng mười mùng năm Bể Sở, sông Ngô Ở khắp mọi nơi Sở và Ngô là hai nước thời Xuân Thu, Trung Quốc. Một tay gây dựng cơ đồ, Bấy lâu bể Sở, sông Ngô tung hoành Truyện Kiều Ví dầu Nếu mà, nhược bằng từ cổ. Cũng nói là ví dù. Lái Người chuyên nghề buôn chuyến một loại hàng hóa nhất định lái gỗ, lái trâu... Cá mú Tên chung một họ cá biển cho thịt trắng, dai, ngọt. Có ba loại cá mú chính là cá mú đỏ, cá mú đen, cá mú cọp, trong đó cá mú đỏ là loài cá quý hiếm nhất, hai loại còn lại thì hiện nay đang được nuôi khá nhiều. Tùy theo từng địa phương mà cá mú còn được gọi là cá song, cá gàu gầu, cá mao… Cá mú đỏ Thờn bơn Còn gọi là cá bơn, một loại cá thân dẹp, hai mắt nằm cùng một bên đầu. Vì vị trí hai mắt như vậy nên khi nhìn chính diện có cảm giác miệng bị méo. Cá thờn bơn Cá lịch Có nơi gọi là lệch hoặc nhệch, tên chung của một số loài cá-lươn phổ biến. Cá lịch có hình dạng tương tự con lươn, mình thon dài, da trơn không vảy, đuôi thon nhọn, mắt nhỏ. Tùy vào từng loài khác nhau, cá lịch có thể có vây hoặc không vây, cũng như màu da có thể là màu trơn hoặc có đốm hay có sọc. Các loài cá lịch thường sống ở biển hoặc ở vùng nước lợ cửa sông, nhưng cũng có thể bơi ngược dòng đến sống ở sông ngòi hay ruộng đồng nước ngọt. Vào ban ngày, cá lịch chui rúc trong bùn, cát, đến đêm thì bơi ra kiếm ăn ở tầng đáy nước. Thức ăn của cá lịch là các loài cá hay giáp xác nhỏ. Đối với người Việt Nam, cá lịch là một loài thủy sản bổ dưỡng tương tự như lươn. Cá lịch cu Cá lịch đồng Còng Một loại sinh vật giống cua cáy, sống ở biển hoặc các vùng nước lợ. Còng đào hang dưới cát và có tập tính vê cát thành viên nhỏ để kiếm thức ăn. Ngư dân ở biển hay bắt còng làm thức ăn hằng ngày hoặc làm mắm. Con còng Ghẹ Vùng Bắc Trung Bộ gọi là con vọ vọ, một loại cua biển, vỏ có hoa, càng dài, thịt nhiều và ngọt hơn cua đồng. Con ghẹ Cá đuối Một loài cá biển, cùng họ với cá nhám, thân dẹp hình đĩa, vây ngực rộng, xòe hai bên, đuôi dài. Cá đuối Cá ngần Còn gọi là cá ngân, cá cơm ngần, cá sữa, cá thủy tinh, hay cá bún, một loại cá không xương, nhỏ như con tép, màu trắng hoặc trong suốt, sống trong môi trường nước ngọt hoặc nước lợ. Từ cá ngần có thể chế biến ra nhiều món ngon như canh chua, cá chiên trứng, chả cá ngần… Cá ngần Cá Ông Tên gọi của ngư dân dành cho cá voi. Do cá voi có tập tính nương vào vật lớn như thuyền bè mỗi khi có bão, nên nhiều ngư dân mắc nạn trên biển được cá voi đưa vào bờ mà thoát nạn. Cá voi được ngư dân tôn kính, gọi là cá Ông, lập nhiều đền miếu để thờ. Bộ xương cá Ông trong đền thờ ở vạn Thủy Tú, Phan Thiết Lưỡng long chầu nguyệt Hai con rồng chầu mặt trăng cũng gọi là "rồng chầu mặt nguyệt". Đây là chi tiết phù điêu thường gặp trên các mái đình đền, chùa chiền ở nước ta, mang ý nghĩa tâm linh thuần phục thánh thần. Lưỡng long chầu nguyệt Cá chim Một loài cá biển, mình dẹp và cao, mồm nhọn, vẩy nhỏ, vây kín. Cá chim Cá thu Loại cá biển, thân dài, thon, không có hoặc có rất ít vảy. Từ cá thu chế biến ra được nhiều món ăn ngon. Cá thu Cá nhụ Cũng gọi là cá chét, một loại cá biển thân dài, dẹt bên, đầu ngắn, mắt to. Thịt cá dai, ngọt và nhiều chất dinh dưỡng, xương mềm. Cá thường được chiên lên chấm với nước mắm tỏi, ớt ăn kèm rau sống hoặc nấu canh ngót hoặc sốt cà chua, kho cà chua, kho tiêu, kho tộ… Cá nhụ Cá đé Cũng gọi là cá lặc, một loài cá biển thân dài, đầu ngắn, thân màu trắng bạc. Cá đé có thịt thơm ngon hảo hạng, hiếm có khó tìm, được xếp vào “tứ quý ngư” chim, thu, nhụ, đé, bốn loài cá quý của Việt Nam. Cá đé Cá vược Một loại cá sinh trưởng ở nước ngọt, nước lợ và di cư ra vùng nước mặn để đẻ. Ở nước ta, cá vược phân bố dọc bờ biển từ Bắc đến Nam và được đánh giá có giá trị kinh tế cao, đã được thuần hóa để nuôi cả trong điều kiện nước mặn và nước ngọt. Cá vược nuôi Cá he Một loại cá nước ngọt thường gặp ở miền Tây Nam Bộ, họ hàng với cá mè. Cá he có đuôi và vây màu đỏ, vẩy bạc. Thịt cá he ngon, béo nhưng có nhiều xương. Xem thêm Câu cá he. Cá he Cá mòi Một loại cá thuộc họ cá trích, có tập tục bơi thành đàn từ biển ngược lên nguồn vào tháng giêng để đẻ trứng, vì vậy nhân dân ta thường giăng lưới bắt cá mòi ở sông vào dịp này. Cá mòi ngon nhất là trứng cá, và thường được chế biến thành các món nướng, món kho. Cá mòi có hai loại cá mòi lửa và cá mòi he. Cá mòi Cá chuồn Tên một họ cá biển có chung một đặc điểm là có hai vây ngực rất lớn so với cơ thể. Hai vây này như hai cánh lượn, giúp cá chuồn có thể "bay" bằng cách nhảy lên khỏi mặt nước và xòe vây lượn đi, có thể xa đến khoảng 50 mét. Cá chuồn sống ở những vùng biển ấm, thức ăn chủ yếu của chúng là các phiêu sinh vật biển. Ở nước ta, cá chuồn có nhiều ở những vùng biển miền Trung. Cá chuồn có thể chế biến thành nhiều món ăn như nướng, kho, nấu bún... Cá chuồn đang bay. Cá đối Một loại cá có thân tròn dài, dẹt, vảy tròn, màu bạc. Cá đối được chế biến nhiều món ăn ngon, hấp dẫn như cá đối nướng, cá đối chiên, cá đối kho dưa cải, cháo cá... Cá đối kho thơm Đồi mồi Một loài rùa biển, mai có vân đẹp nên thường bị đánh bắt để làm đồ mĩ nghệ lược, vòng tay, vòng đeo cổ.... Những đốm nám trên da hoặc trái cây cũng gọi là vết đồi mồi. Con đồi mồi Lợn biển Động vật có vú thuộc bộ bò biển, sống ở biển hoặc cá vùng cửa sông, có thân hình to lớn cá thể trưởng thành nặng khoảng nửa tấn, chuyên ăn các loại thực vật dưới biển. Lợn biển Cá mó Cũng gọi là cá lưỡi mèo hoặc cá vẹt, một loài cá biển có thân hình dẹt, khá mềm, rất nhiều thịt. Thịt của cá mó có hương vị đậm đà, dễ chế biến thành các món kho, chiên hay canh. Cá mó Nhưng Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Nhưng, hãy đóng góp cho chúng tôi. Cá nhung Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Cá nhung, hãy đóng góp cho chúng tôi. Cá cúng Chú thích này đang để ngỏ. Nếu bạn có thông tin về Cá cúng, hãy đóng góp cho chúng tôi. Cá hồng Loài cá có thân bầu dục dài dẹt, thân cá có màu hồng, viền lưng cong đều, viền bụng tương đối thẳng. Đầu cá lõm, mõm dài và nhọn, vây lưng dài, có gai cứng khỏe. Đa số các giống cá hồng sống ở biển, trừ một số ít loài sống trong môi trường nước ngọt. Cá hồng biển Hồng Gai Cũng gọi là Hòn Gai, tên cũ là Bang Gai hoặc Áng Gai, nay là một phường thuộc thành phố Hạ Long, tỉnh Quảng Ninh. Cuối thế kỷ 19 trở về trước, đây là một vùng vắng vẻ, cư dân thưa thớt, vốn chỉ là vũng biển đậu thuyền. Tại đây có mỏ Hòn Gai, một mỏ than đã được đưa vào khai thác từ thời Pháp thuộc. Một góc mỏ than Hòn Gai thời Pháp thuộc Cá mè Tên chung của một số loài cá nước ngọt cùng họ với cá chép, có thân dẹp, đầu to, vẩy nhỏ, trắng. Có nhiều loài cá mè, nhưng cá mè trắng và mè hoa là phổ biến hơn cả. Nhân dân ta đánh bắt cá mè để lấy thịt, mỡ và mật cá, vừa để chế biến thức ăn vừa làm thuốc. Cá mè Cá chép Tên Hán Việt là lí ngư, một loại cá nước ngọt rất phổ biến ở nước ta. Ngoài giá trị thực phẩm, cá chép còn được nhắc đến trong sự tích "cá chép vượt vũ môn hóa rồng" của văn hóa dân gian, đồng thời tượng trưng cho sức khỏe, tài lộc, công danh. Ở một số địa phương miền Trung, cá chép còn gọi là cá gáy. Cá chép Cá rô Loại cá rất thường gặp trên các đồng ruộng ở nước ta. Nhân dân ta thường tát đồng để bắt cá rô. Cá rô đồng có thịt béo, thơm, dai, ngon, dù hơi nhiều xương, và được chế biến thành nhiều món ngon như kho, nấu canh, làm bún... Lưu ý Có một giống cá khác gọi là cá rô phi, thường được nuôi ở ao, nhưng khi nhắc đến cá rô thì người ta nghĩ ngay đến cá rô đồng. Cá rô đồng kho tộ Cá trê Tên một họ cá da trơn nước ngọt phổ biến ở nước ta. Cá trê có hai râu dài, sống trong bùn, rất phàm ăn. Nhân dân ta thường đánh bắt cá trê để làm các món kho, chiên hoặc gỏi. Cá trê Chắn đăng Giăng đăng ở những vịnh, vũng để đón cá theo con nước xuống. Vạn Hoa Vùng biển thuộc đảo Cái Bầu Kế Bào, nay thuộc địa phận huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Tại đây cũng có bến cảng và núi cùng tên là Vạn Hoa. Cảng Vạn Hoa Port-Wallut thập niên 1920 Cái Rồng Địa danh nay là thị trấn thuộc huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh, đồng thời cũng là tên cảng biển ở đây. Cảng Cái Rồng Xà Kẹp Địa danh nay thuộc xã Hạ Long, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Bãi Dài Một bãi biển nằm trong khu vực vịnh Bái Tử Long, thuộc địa phận huyện đảo Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Hiện nay đây là một địa điểm du lịch rất nổi tiếng. Bãi Dài Vân Đồn Cái Bàn Tên một hòn đảo nay thuộc địa phận huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Hòn Hai Tên chung của hai hòn đảo nhỏ nằm trong vịnh Bái Tử Long, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Hòn Hai Cây Khế Một hòn đảo nay thuộc địa phận thôn Đông Tiến, xã Đông Xá, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Cái Đài Một vùng biển thuộc địa phận huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Vụng Đài Chuối Một vụng biển nay thuộc địa phận xã Vạn Yên, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Cửa Mô Tên một vùng biển nay thuộc địa phận huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Cồn Đảo nhỏ và thấp. Ở miền Trung và Nam Bộ, cồn còn được gọi là cù lao hoặc bãi giữa, là dải đất hình thành ở giữa các con sông lớn sông cái nhờ quá trình bồi đắp phù sa lâu năm. Cồn Phụng thành phố Mỹ Tho, tỉnh Tiền Giang Lò Vôi Địa danh nay thuộc thôn Đông Thắng, xã Đông Xá, huyện Vân Đồn, tỉnh Quảng Ninh. Đục đá Khai thác đá núi để sản xuất các dụng cụ dân sinh như cầu cống, cối giã gạo, cối xay bột… Đây là nghề phổ biến ở một số làng quê gần các núi đá lèn ở Nghệ An - Hà Tĩnh. Lèn Núi đá vôi phương ngữ Bắc Trung Bộ. Dũng Quyết Cũng gọi là rú núi Quyết, một ngọn núi nằm trong quần thể Lâm viên Núi Quyết thuộc địa bàn phường Trung Đô, thành phố Vinh, Nghệ An. Từ xưa núi đã được đánh giá là có thế Long, Ly, Quy, Phượng, được vua Quang Trung chọn là nơi đóng đô, gọi là Phượng Hoàng Trung Đô. Đền thờ vua Quang Trung trên núi Quyết Cửa Lò Một địa danh ven biển nay là thị xã Cửa Lò, tỉnh Nghệ An và là một địa điểm du lịch nổi tiếng. Bãi biển Cửa Lò Đại Huệ Tên dân gian là rú núi Nậy, dãy núi nằm ở phía Bắc huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Hùng Sơn Tên dân gian là rú núi Đụn, dãy núi cao 300m nằm ở phía Tây Bắc tỉnh Nghệ An. Trên núi có thành cổ Vạn An, đền thờ và khu mộ Mai Hắc Đế, di tích động Lỗ Ngồi… Mống Cầu vồng phương ngữ. Mắt, Mê Hai hòn đảo nhỏ thuộc các huyện Diễn Châu, Nghi Lộc, tỉnh nghệ An. Rau cần Một loại rau xanh thường được nhân dân ta trồng để nấu canh, xào với thịt bò, hoặc làm vị thuốc. Canh cá nấu cần Lưng chữ cụ, vú chữ tâm Lưng thẳng, cân đối trông như chữ “cụ” 具, vú đầy đặn, săn chắc hình dáng như chữ “tâm” 心 là hai nét hay gặp của người phụ nữ mắn đẻ, khéo nuôi con. Công Một loài chim thuộc họ Trĩ, có tên Hán Việt là khổng tước. Chim trống bộ lông có màu lục óng ánh, đuôi rất dài, có màu lục ánh đồng, mỗi lông ở mút có sao màu lục xanh, đỏ đồng, vàng, nâu. Mào dài, hẹp thẳng đứng, phần mặt của nó có màu vàng và xanh, khi nó múa đuôi xòe ra hình nan quạt để thu hút chim mái. Công mái không có đuôi dài và đẹp như công trống. Chim công Cốc Loài chim lội nước thuộc họ Bồ nông, thức ăn là các loại động vật thủy hải sản nhỏ Chim cốc Đầu công, mình cốc, cánh vỏ trai Những tiêu chuẩn để chọn gà chọi tốt. Lợn rọ, chó thui Lợn nằm trong rọ thì khó biết gầy béo, chó đã thui rồi thì không biết là chó lành hay chó bệnh. Lợn nhà, gà chợ Kinh nghiệm dân gian mua lợn ở nhà để chọn được giống tốt, mua gà ngoài chợ để được chọn thoải mái. Đồ Từ tục, chỉ bộ phận sinh dục của người phụ nữ. Gà lấm lưng, chó sưng đồ Gà mái bị trống đạp nên lưng bị lấm, chó cái bị nhảy sưng bộ phận sinh dục. Theo kinh nghiệm dân gian, gà và chó thời kì động dục thì thịt ngon. Rộc Đất trũng ven các cánh đồng, hoặc giữa hai sườn đồi núi. Cũng có nghĩa là ngòi nước nhỏ, hẹp. Ruộng gò Ruộng làm ở chỗ đất gò, đất cao. Tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm Một kinh nghiệm về bắt rươi. Vào ban đêm những ngày 20 tháng 9 và mùng 5 tháng 10 âm lịch, nước thủy triều dâng lên, rất nhiều rươi chui ra khỏi mặt đất gọi là nứt lỗ rươi.
Với tôi mùa rươi chỉ thực sự "chín" khi quýt hôi từ miền ngược xuôi về phố Mùa ăn rươi ngắn ngủi ngon nhất là đúng vào tiết đông lạnh se sắt. Dân gian cũng truyền miệng nhiều câu ca dao tục ngữ về mùa rươi này “Bao giờ cho đến tháng mười, bát cơm thì trắng bát rươi thì đầy”, rồi thì "tháng chín đôi mươi, tháng mười mùng năm” hay “Tháng chín ăn rươi, tháng mười ăn nhộng”… Những câu ca này kể cho chúng ta về sự xuất hiện từ của con rươi đã từ lâu đời, song hành trong cuộc sống nhà nông Bắc Bộ bao đời nay, cũng như sự có mặt của thứ nguyên liệu đặc biệt này trong ẩm thực Việt. Có những người Hà Nội cả năm ngóng đợi ăn những thứ “vào mùa” Có những người Hà Nội cả năm ngóng đợi ăn những thứ “vào mùa”, chứ nhất quyết không ước nó có quanh năm để ăn cho hả dạ. Vậy nên có những thức vốn chả phải sinh ra mọc rễ ở Hà Nội như rươi, nhưng cuối cùng lại là món ăn gắn bó với Hà Nội bởi những lẽ trên. Rươi ngon Tứ Kỳ Hải Dương mang lên từ sáng mờ sương chưa kịp nắng, tới Hà Nội còn roi rói chân. Đi chợ sớm chỉ mong gặp mẻ rươi ngon. Và đồng ngày hôm đó mà gặp chị quýt hôi thì thôi cứ gọi là chúa! Không chạy đi đâu được. Vỏ quýt là vị không thể thiếu trong món chả rươi Xách túi quýt hôi hớn hở tạt qua chợ Hàng Bè mua nửa cân rươi, dăm quả trứng gà có trống, lạng thịt vai xay nhỏ, ít hành củ, thì là, xà lách, thơm mùi Láng, chanh, ớt rồi chuẩn bị nghênh đón bữa chả rươi chuẩn vị. Thịt, trứng, rươi, hành củ băm nhỏ, thì là, hành hoa cắt nhỏ, bóc vỏ quýt thái chỉ rồi băm nhỏ cho vào tô trộn nhẹ tay. Thịt hồng nhạt, rươi hồng sậm, hành củ trắng, hành lá xanh non, thì là xanh sẫm, vỏ quýt vàng tươi. Mùi vỏ quýt, thì là đánh bạt mùi tanh của rươi. Lấy chảo đặt lên bếp ở giữa bàn ăn, cho ít mỡ lợn, mỡ bắt đầu sủi lăn tăn múc một muôi rươi thả vào nghe xèo một cái. Miếng chả rươi bập bềnh trong chảo mỡ, thoáng cái đã tỏa mùi thơm nhức nhối khiến hàng xóm không thể không chạnh lòng “ nhà nào đang rán chả rươi mà thơm thế” Rươi chín rất nhanh nên chỉ hơi vàng là đã ăn được, không nến rán kỹ quá rươi bị xác ăn không ngon. Chả rươi ngon nhất là chỉ rán một lần và ăn thật nóng Chả rươi ngon nhất là chỉ rán một lần và ăn thật nóng. Nên thú nhất là chỉ ăn một món chả rươi và đặt chảo ngay tại bàn vừa ăn vừa rán. Miếng chả rươi nóng bỏng môi chấm khẽ khàng vào bát nước chấm vắt chanh ớt thêm tý hạt tiêu ăn cùng hành củ chẻ mỏng, xà lách, húng láng, bún hến thêm chén rượu nếp cái hoa vàng quả là tuyệt. Nghĩ thú ăn chơi của các cụ mà kính nể. Mùa nào thức ấy thật nhịp nhàng. Các nguyên liệu không chỉ làm món ăn ngon mà còn là những vị thuốc khắc chế lẫn nhau tỷ như vỏ quýt và rươi. Rươi giàu dinh dưỡng nhưng sống trong môi trường bùn cát, đáy nước nên rất dễ nhiễm độc. Nếu không chế biến đúng cách, có thể là vật trung gian lây truyền nhiều loại vi khuẩn gây bệnh như Salmonella, gây ra các bệnh đường ruột nguy hiểm. Hoặc ăn rươi không tươi cũng rất nguy hiểm vì rươi chết sẽ tạo ra những độc tố có hại cho cơ thể và có thể gây ra các triệu chứng như nổi ban, đau đầu, nôn ói, tiêu chảy... Trong khi đó , vỏ quýt có thể gây ức chế sự sinh trưởng và phát triển của các loại vi khuẩn nên nó có khả năng khắc chế những tác dụng phụ từ rươi, kìm hãm và hóa giải những chất độc hại do rươi thải ra. Vì vậy, không chỉ làm món rươi thơm, ngon mà khi chế biến các món ăn từ rươi, các cụ thường cho thêm vỏ quýt là thế. Chả rươi, đôi khi còn gọi là rươi đúc trứng, là một trong những món chả rán đặc biệt của người Việt. Các món ăn chế biến từ rươi có hương vị thơm ngon, giá trị dinh dưỡng cao khiến bất cứ ai đã một lần được thưởng thức đều không thể nào quên được. Nguyên liệu - Rươi 300 gr - Thịt sấn vai xay 150 gr - Trứng gà hoặc trứng vịt 1-2 quả - Vỏ quýt 1/3 quả nhỏ hoặc 1/4 quả to - Hành lá, rau mùi hoặc thì là,, gừng củ, hành khô - Hạt nêm, hạt tiêu, ớt - Cà rốt 1 củ Cách làm - Rươi sau khi mua về các bạn rửa rươi với nước. Dùng đũa khuấy kỹ nhưng nhẹ nhàng một lúc, trút bỏ nước bẩn và xả vài lần cho sạch. - Sau đó các bạn có thể chế biến ngay hoặc chia rươi thành các túi nhỏ cất vào ngăn đá tủ lạnh để ăn dần. Hành lá, rau mùi thái nhỏ, vỏ quýt thái chỉ. - Nếu có lá gừng các bạn cũng băm nhỏ, cho vào chả rươi để tăng thêm hương vị. - Dùng đũa đánh rươi cùng với vỏ quýt. Tuy nhiên không nên đánh rươi nhuyễn quá, khi ăn sẽ mất đi cảm giác bùi, ngậy khi thỉnh thoảng nhai phải miếng rươi vẫn còn nguyên con. - Cho hành, rau mùi, thịt xay, trứng gà, hạt nêm, hạt tiêu vào đánh đều cùng rươi có thể thêm chút ớt băm để tạo vị chứ đừng cho cay quá. Nếu cảm thấy hỗn hợp hơi đặc thì các bạn dùng thêm 1 quả trứng nhé. - Đợi chảo nóng già, xúc từng thìa rươi đổ vào chảo lót lá chuối bên dưới rồi dàn đều tạo thành những miếng hình tròn, có độ dầy 2cm. Chả rươi rất nhanh chín nên chỉ cần nhanh cho cháy nhẹ cạnh ngoài là các bạn vớt chả ra. Cách làm này giúp cho món chả thơm hơn - Tiếp theo cho vào chiên với dầu , cách này có thể làm rươi ngon hơn mà vẫn giữ được độ ngon. Theo báo Văn hóa
tháng chín đôi mươi tháng mười mùng năm